Thứ Năm, 22 tháng 9, 2011

Cổ tích về loài bướm

Thuở nhỏ, khi nhìn thấy những con bướm đêm màu nâu đất, tôi vừa ghét vừa sợ vì chúng quá xấu xí, không như những chú bướm có màu sắc rực rỡ khác. Cho đến một ngày, tôi đã thay đổi suy nghĩ khi nghe câu chuyện sau:

"Xưa lắm rồi, khi có những chú bướm đêm cũng có màu sắc rực rỡ như những loài bướm khác, thậm chí còn lộng lẫy hơn cả những chú bướm bây giờ. Một ngày nọ, những thiên thần thấy buồn bã khi mây đen che phủ bầu trời khiến họ không còn nhìn thấy loài người ở chốn trần gian. Họ khóc - nước mắt thiên thần rơi xuống tạo nên những giọt mưa trắng xóa. Những chú bướm đêm hào hiệp vốn ghét nhìn thấy mọi người buồn phiền. Vì thế chúng rủ nhau làm một chiếc cầu vồng. Bướm đêm nghĩ rằng nếu nhờ những loài bướm khác giúp sức thì chúng chỉ cần cho đi một ít màu sắc của mình là có thể tạo ra một chiếc cầu vồng tuyệt đẹp. Thế là một chú bướm đêm tìm đến nữ hoàng của loài bướm khác để nhờ giúp đỡ. Nhưng những loài bướm khác quá đỗi ích kỷ và tự phụ nên không muốn cho đi màu sắc của mình, dù chỉ một chút.

Những chú bướm đêm quyết định làm việc đó một mình. Chúng vỗ cánh thật mạnh làm bột phấn trên cánh rơi rắc trong không trung tạo nên những đám mây ngũ sắc lung linh như thủy tinh. Những đám mây dần dần giãn ra tạo thành một đường viền dài. Nhưng chiếc cầu vồng vẫn chưa đủ lớn, vì thế những chú bướm đêm cứ tiếp tục cho đi màu sắc của mình, cứ thêm vào từng chút một cho đến khi chiếc cầu vồng kéo dài đến tận chân trời. Những thiên thần trông thấy cầu vồng trở nên vui sướng. Họ mỉm cười, nụ cười ấm áp chiếu rọi xuống trần gian làm nên những tia nắng rạng rỡ. Và những chú bướm đêm ấy chỉ còn lại duy nhất một màu nâu thô mộc bởi chúng đã cho đi tất cả những sắc màu lộng lẫy nhất để dệt nên chiếc cầu vồng tuyệt diệu..."

Bạn ạ, đừng chăm chăm nhìn vào diện mạo, hãy soi rọi để tìm thấy những điểm sáng bên trong một con người. Có ai đó đã nói: "Nhân cách là ngọc quý, nó có thể cắt rời những ngọc quý khác". 

 
                                                       Cùng tìm hiểu một chút ^^!
 

  BƯỚM CAM ĐUÔI DÀI

Papilio polytes Linnaeus

Họ: Bướm phượng Papilionidae

Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera



  • Mô tả:
· Bướm đực chỉ có một dạng trong khi bướm cái có một số dạng. Một trong những dạng không phổ biến (cyrus) giống như con đực. Bướm cái trong ảnh là một dạng bắt chước loài bướm độc Papilio anstolochiae. Loài này dễ dàng nhận biết được vì thân có màu hồng.

· Loài bướm này phổ biến ở rừng phục hồi, rừng thứ sinh, các vùng đất canh tác, vườn và bìa rừng. Sâu non ăn lá một số cây giống nh­ các loài Papilio demoleus.

  • Phân bố:
· Loài này có vùng phân bố rộng từ Srilanca và Đông Ấn Độ đến Đài Loan và phía Nam đến quần đảo Sanđa, Đây là loài phổ biến khắp nơi ở Việt Nam. Tên được đặt do thường gặp trên các loài thực vật thuộc họ Cam Rutaceae và sau cánh có đuôi.


               



 
Bướm cánh phượng kiếmPathysa antiphates (Cramer)
Họ: Bớm phượng Papilionidae
 
Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera

Mô tả:

  • Bướm có kích thước trung bình, sải cánh dài 85 - 90 mm. Cánh con đực và con cái có kích thước giống nhau, màu trắng vàng có nhiều vạch đen, mặt trên của cánh trước có 7 vạch đen, vạch thứ hai kéo dài tới giữa cánh còn lại kéo dài khoảng 1/5 cánh. Cánh sau có đuôi dài dạng kiếm. Mép cánh và kiếm có màu đen. Mặt trên của cánh sau màu trắng vàng với nhiều vệt và chấm đen.

  • Nơi sống và sinh thái:
Thường gặp ở vùng rừng núi nước ta. Thường thấy ở bìa rừng, ven suối và nơi ẩm ớt, khi trời nắng đẹp     Bướm thường bay rập rờn trên các đỉnh cây bụi có hoa. Vào buổi tra Bướm thờng tìm nơi đất ẩm ớt ven suối, vũng nước để đậu, lúc này dễ dàng bắt được chúng.

  • Phân bố:
Việt Nam: ở nước ta trước kia thấy ở các tỉnh có núi rừng từ Bắc đến Nam. Ngày nay ít gặp.
Thế giới: ấn Độ, Nam Trung Quốc. Các nước này cũng có nhiều vùng hiếm thấy.

  • Giá trị sử dụng:
Bướm đẹp, làm cảnh, được nhiều nhà su tầm Bướm a thích. Đời sống gắn với rừng ẩm nên chúng còn là chỉ thị của môi trường. Một khi Bướm không xuất hiện, nghĩa là rừng nơi đó bị phát quang.

  • Tình trạng:
Hiện nay loài Bướm này rất hiếm do diện tích rừng bị phá hủy. Mức đe dọa: Bậc E.



                                

BƯỚM CÁNH VÂN HOA

Junonia atlies Linnaeus

Họ: Bướm giáp Nymphalidae

Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera

  • Mô tả:
· Giống như loài Junonia almana, loài bướm này có hai dạng tùy theo hình dạng của cánh và mẫu hoa văn mặt dưới cánh. Chúng xuất hiện ở những nơi ở tương tự như loài Junonia almana.

  • Phân bố:
· Sinh học và sự phân bố tương tự như là bướm hoa đuôi công. Tên loài đặt theo đặc đỉểm hình thái. 


 

                     
 

 
                    BƯỚM GIÁP LỚN

                        Vindula erota Fabricius

                   Họ: Bướm giáp Nymphalidae

                     Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera


  • Mô tả:
· Bướm cái lớn hơn và có màu đất nâu hơi xám với dải trắng ở cả hai cánh; bướm cái ít gặp hơn bướm đực, chủ yếu ở trong rừng. Bướm đực gặp khá phổ biến gần nguồn nước. Cây thức ăn cho sâu non thuộc họ Lạc tiên (thí dụ cây Thư diệp) và thường hút những chất thải của các loài động vật trong rừng.

  • Phân bố:
· Phân bố rất rộng từ Ấn Độ đến quần đảo Selebes và Phi-lip-pin. Bướm này gặp khắp nơi ở Việt Nam như Vườn quốc gia Cát Tiên, Bình Phước, Bình Dương… Tên bướm được dịch từ tiếng Anh. 
  

  

                   
 


                          BƯỚM HỔ ĐỐM

                          Parantica aglea Stoll

                      Họ: Bướm đốm Danaidae

                      Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera 
  •  Mô tả:
· Bướm cái và đực giống nhau. Chúng sống ở những thảm rừng thứ sinh có bóng râm trong rừng hoặc chỗ trống ở những độ cao khác nhau. Bướm bay yếu và chậm, thường gặp chúng bay riêng lẻ. Những cây thức ăn là Đầu dài xoan thuộc họ Thiên lý Asclepiadaceae.

  • Phân bố:
· Vùng phân bố chủ yếu ở Đông Nam châu Á cũng như Đài Loan, các đảo An-đa-man và Nicobar. Loài này rất phổ biến, gặp mọi nơi ở Việt Nam. Tên bướm dịch nghĩa từ tiếng Anh.
                 


 
               BƯỚM HOA ĐUÔI CÔNG
                         
                         Junoma almana Linnaeus

                     Họ: Bướm giáp Nymphalidae

                       Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera


  • Mô tả:
· Bướm đực và bướm cái giống nhau. Loài này hầu như có số lượng nhiều hơn ở gần những khu vực đất canh tác, đồng cỏ và ven đường ở độ cao vừa và thấp. Loài này thường gặp ở trong vườn và công viên thành phố. Bướm bay gần mặt đất và bị hấp dẫn bởi hoa cỏ và chất hữu cơ thối rữa. Sâu non phát triển trên cây Rau dệu (họ Rau dền Amaranthaceae) và Thốp nốp (họ ô rô Acanthaceae).

  • Phân bố:
· Loài này phân bố từ Ấn Độ đến Trung Quốc và Nam đến Sunderland. Đây là một trong những loài phổ biến nhất, có khắp nói ở Việt Nam. Tên bướm được dịch nghĩa từ tiếng Anh.

                



                   Bướm khế
 
      Attacus atlas Linnaeus 1758
       Saturnia atlas Linnaeus
 
       Họ: Bướm ma Saturniidae
 
       Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera

  • Mô tả:
Bướm Khế là loại Bướm đêm có kích thước lớn nhất ở nước ta và trên thế giới. Bướm đực rất dễ phân biệt với Bướm cái bởi anten dạng lược kép, ấu trùng to đạt tới 80 mm, màu nâu tối, với nhiều điểm nâu đen trên thân ấu trùng. Mặt lưng của ấu trùng với nhiều hàng lông ứng dạng gai màu xanh thẫm ở gần hậu môn của ấu trùng có một vệt,màu xanh tím.
  • Sinh học:
Có con cái của loài Bướm này chứa trong bụng tới 290 quả trứng (Mẫu thu được tại Hát Lót- Sơn La). Đôi khi giai đoạn nhộng có thể kéo dài tới 1,5 năm.
Nơi sống và sinh thái:

Bướm sống cả ở rừng và vườn cây ăn quả của miền núi cũng nhiều vùng đồng bằng. ở ngoại thành Hà Nội (Văn Điển) có người đã gặp Bướm vào nhà. Một số người mê tín khi gặp Bướm vào nhà, sợ, cho là điềm gở.
Bướm rất thích ánh sáng, nếu ban đêm một số nhà có đèn sáng Bướm có thể bay vào. Tuy vậy chỉ vào nhà rất hãn hữu vì số lượng Bướm ở vờn còn rất ít. ấu trùng ăn nhiều loại cây, cả cây rừng và cây ăn quả, vì dụ như cây: Ailanthus glandulosa và Berberis...vv.
  • Phân bố:
Việt Nam: ở khắp vùng rừng núi và đồng bằng.
Thế giới: Trung Quốc (Quảng Tây, từ ấn Độ đến Đông Nam á)
Giá trị sử dụng:

Tuy Bướm có xuất hiện trong vườn nhưng chưa có trường hợp nào báo cáo là chúng gây hại. Theo Barlow (1982) có thấy ấu trùng ăn cây Hoàng liên (Bereris sp), một cây thuốc qúy. Điều này cần theo dõi tiếp.
Bướm Khế là loài Bướm lớn nhất trong các loại Bướm của vùng Đông Nam á, đẹp và rất được a thích trong các bộ sưu tập.
  • Tình trạng:
Bướm Khế ngày càng hiếm do môi trường thay đổi và phun thuốc trừ sâu. Mức đe dọa: Bậc R.


     


            
              BƯỚM PHƯỢNG CAM

                 Papilio demoleus Linnaeus

                 Họ: Bướm phượng Papilionidae

                 Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera


  • Mô tả:
· Đây là loài khó có thề bị nhầm lẫn. Bướm đực và Bướm cái giống nhau. Chúng gặp chủ yếu ở gần ven làng, vườn và công viên trong thành phố. Chúng bị hấp dẫn bởi một số cây hoa và Cam, Chanh Citrus limonia. Sâu non ăn một số cây thuộc họ Cam Rutaceae (các chi Cam, Chanh rượu, Quýt gai Citrus reticulata) và cả trên cây táo Zizyphus mauritiana (họ táo ta Rhamnaceae) và chi Phá cố chỉ (họ đậu Fabaceae).

  • Phân bố:
Loài này có vùng phân bố phổ biến ở Srilanca, Ấn Độ đến Đông dương và ở một số đảo thuộc quần đảo Sanđa, Tân Ghinê và Australia, Đây là loài phổ biến khắp ở Việt Nam. Tên Bướm được đặt do thường phổ biến trong các vườn cam.

            


             Bướm đuôi dài xanh lá chuối
             Argema maenas Doubleday 1847
 
             Họ: Bướm ma Saturniidae
 
             Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera

  • Mô tả:
Bướm lớn, thuộc loài Bướm đêm, màu xanh lá chuối non, có đuôi dài. Kích thước sải cánh từ 180 - 190 mm. Con đực có anten dạng lược kép ngắn. Có đôi súc miệng ngắn có cùng màu với bàn chân trước. Con đực có anten ngắn hơn con cái có cùng hình dạng.
Con đực nhỏ và thon, có sải cánh hẹp hơn con cái, đuôi con đực dài đuôi hơn con cái. ở cả con đực và con cái có bụng và gốc đều có lông dài, chân giữa nhiều lông nhưng ở con đực bàn chân giữa và bàn chân sau có 2 cựa.
.
  • Nơi sống và sinh thái:
Lúc đầu ấu trùng màu hồng, sau màu xanh phình to, trên phủ lông to, dài và có một số nốt sần lớn. Chúng ăn một loài cây có quả có tên khoa học là Avrrhoa bilimbi. Nhộng màu nâu, nằm cuộn trong lá được cuốn làm tổ.
Phân bố:

Việt Nam: Trung Bộ và Nam Bộ.
Thế giới: miền Bắc ấn Độ đến Malaixia, Java và Sulawesi.
  • Giá trị sử dụng:
Đẹp về màu sắc lạ, về hình dáng, thường được a chuộng trong sưu tập.
  • Tình trạng:
Loài bướm này ngày càng hiếm do diện tích rừng bị thu hẹp nhanh. Mức đe dọa: Bậc R


                      BƯỚM ĐUÔI CHIM

                Graphium agamemon Linnaeus

                Họ: Bướm phượng Papilionidae

                 Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera

  • Mô tả:
Bướm cái và bướm đực giống nhau, nhưng bướm cái hơi lớn hơn và có các dải đuôi kéo dài hơn. Bướm thường gặp ở vùng làng quê, trong vườn, công viên và những khu vực trống trong thành phố gần thảm thực vật của các khu rừng thứ sinh. Bướm cái đẻ trứng trên các cây thuộc chi Hoa giẻ, và chi Nhọc Polyalthia họ Na Annonaceae và một số cây thuộc chi Giổi họ Ngọc lan Magnoliaceae.

  • Phân bố:
Là loài có vùng phân bố rất rộng từ Ấn Độ và Trung Quốc qua quần đảo Sanđa đến Australia và quần đảo Salomon. Một trong những loài bướm phổ biến nhất trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Tên bướm được đặt vì có đuôi như chim.
 

 
 BƯỚM PHƯỢNG ĐUÔI KIẾM RĂNG TÙ
 
Teinopalpus imperalis L.
 
Họ: Bướm phượng Papilionidae
 
Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera

  •   Mô tả:
· Bướm đực có cánh trước màu nâu và 3 giải sọc mờ trắng phần gốc cánh. Phần cánh sát thân có màu xanh nâu xanh càng sát gốc cánh màu xanh càng rõ. Lưng màu xanh, phần bụng có 4 khoanh màu vàng. 2 khoanh mờ ở giữa bụng. Cánh sau cũng có phần màu xanh rất đẹp ở phần gốc cánh. Có 5 đuôi mỏng, đuôi giữa dài và chóp đuôi có màu vàng óng ánh. Phần mép cánh trong có 2 điểm vàng và ở giữa là 1 mảng đen.

  • Sinh học:
· Chưa có những ghi nhận về loài này, cũng như các lòai thức ăn của ấu trùng bướm

  • Nơi sống và sinh thái:
· Thường gặp ở vùng rừng rậm, có lượng mư­a nhiều. Bướm thường sống ở những nơi rừng rậm, ẩm... Thường xuất hiện vào buổi sáng trời nắng, bay rất khoẻ và nhanh bay khá cao nên khó bắt.

  • Phân bố:
· Việt Nam: gặp ở các rừng ẩm ở Sapa, Cao Bằng, các Vườn quốc gia Hoàng Liên và khu rừng giáp với Vân Nam Trung Quốc

· Thế giới: Nam Trung Quốc Zhejiang và Yunnan, Nepal

  • Giá trị sử dụng:
· Là loài quí hiếm và được các nhà phân lọai sưu tầm mẫu vật. Được làm các bức tranh bướm đẹp cho nên lòai này bị khai thác cạn kiệt.

  • Tình trạng:
Hiện nay rất hiếm.


 
BƯỚM PHƯỢNG ĐUÔI KIẾM RĂNG NHỌN
 
Teinopalpus aureus L.
 
Họ: Bướm phượng Papilionidae
 
Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera
  • Mô tả:
· Hình thể của của bướm cái và bướm đực rất khác nhau . Bướm đực có thân, cánh màu nâu và những đốm vàng, xanh xen lẫn. Một dải màu vàng xanh nằm ở giữa cánh trước và một mảng vàng lớn nằm ở cánh sau. Con đực có 1 chiếc đuôi dài nổi bật ở cuối cánh sau trong khi bướm cái không có màu vàng xanh đặc trưng này. Có một mảng màu trắng hình ngũ giác ở cánh sau và những chiếc đuôi dài, mỏng.

  • Sinh học:
· Chưa có những ghi nhận về loài này, cũng như các lòai thức ăn của ấu trùng bướm

  • Nơi sống và sinh thái:
· Thường gặp ở vùng rừng rậm, có lượng mư­a nhiều. Bướm thường sống ở những nơi rừng rậm, ẩm... Thường xuất hiện vào buổi sáng trời nắng, bay rất khoẻ và nhanh bay khá cao nên khó bắt.

  • Phân bố:
· Việt Nam: gặp ở các rừng ẩm ở Sapa, Cao Bằng, các Vườn quốc gia và khu Bảo tồn thiên nhiên giáp với Trung Quốc

· Thế giới: Nam Trung Quốc Zhejiang và Yunnan.

  • Giá trị sử dụng:
· Là lòai quí hiếm và được các nhà phân lọai sưu tầm mẫu vật. Được làm các bức tranh bướm đẹp cho nên lòai này bị khai thác ráo riết.

  • Tình trạng:
· Hiện nay rất hiếm.



              BƯ­ỚM PHƯỢNG LỚN

             Papilio menmon Linnaeus
 
             Họ: Bướm phượng Papilionidae

             Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera


  • Mô tả:
· Một loài Bướm lớn. Bướm đực và cái khác nhau. Bướm cái gồm các dạng có đuôi và không đuôi và nhiều điểm khác thường. Có thề hay gặp ở những nơi trống trải bên ngoài các khu vườn trang trại trồng cam ở đây có những loài cây làm thức ăn chính cho sâu non. Sâu non còn ăn lá các loài thuộc chi Hồng bì và Quất Citrus japonica v.v. tất cả thuộc họ cam Rutaceae.
  • Phân bố:
· Đây là loài có vùng phân bố từ Đông bắc Ấn Độ qua Trung Quốc đến Đài Loan và Nam Nhật Bản; phía Nam qua vùng Đông dương đến quần đảo Sanđa. Loài này phổ biến khắp nơi ở Việt Nam, riêng Bướm cái có số lượng ít hơn. Tên bướm được đặt dựa theo kích thước.
 

           
            Bướm phượng đuôi nheo
             
               Leptocircu curius (Fabricius)
            
              Họ: Bướm phượng Papilionidae
  
              Bộ: Cánh vẩy Lepidoptera

  • Mô tả:
Bướm có sải cánh dài 40 - 50 mm, con đực và con cái kích thước như nhau. Cánh trước hình tam giác nhọn, gốc cánh màu đen, cánh sau gốc cánh màu đen, hình hẹp kéo dài thành một cái đuôi dài (25 - 40 mm).
  • Nơi sống và sinh thái:
Bướm ưa sống ở nơi rừng thưa. Khi trời nắng Bướm thường bay dọc theo các đường mòn và đậu ở nơi đất ẩm ven vũng nước hay bờ suối. Bớm hút mật hoa cây dại hay hút dịch từ các súc vật để sống. Khi Bướm hút mật hoa, hút dịch là dễ bị bắt nhất. Loài Bướm bay rất nhanh như chim én bay.

  • Phân bố:
Việt Nam: Đã sưu tầm được ở các tỉnh có núi, rừng: Hà Giang, Thái Nguyên, Hà Tây, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Đà Nẵng, Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Đồng Nai...vv.
Thế giới: Chưa rõ.

  • Giá trị sử dụng:
Bướm có hình dạng lạ đẹp, thường được làm ví dụ trong các sách về côn trùng học về tính đa dạng của côn trùng, là đối tượng săn lùng của các nhà sưu tầm Bướm.


 Hoa và bướm hoà vào nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và tràn đầy sức sống.

 



 Nguồn:  Diễn đàn Nam Định Online


Một chỗ trống để điền yêu thương

 
Cha tôi thường nói đùa với tôi rằng: "Sau khi cha qua đời nhớ giữ cho cha 1 chỗ ở bàn nhé!". Và tôi trả lời:
- Chỉ những người tốt mới thường chết sớm! Con sẽ đi trước cả cha cho xem! Có khi cha phải giữ chỗ cho con ấy chứ!
Và cuối cùng cha tôi mất. Tôi đã giữ lời hứa qua rất nhiều năm. Mỗi ngày tôi vẫn giữ 1 ghế trống, chỗ mà cha tôi trước đây thường ngồi bên bàn. Nhiều người lấy làm lạ:
- Một chỗ trống như thế sẽ làm mọi người trong nhà nhớ ông cụ và buồn hơn đấy!
Trong thời gian đầu, đúng là như vậy. Nhưng thời gian luôn có cách làm cho những nỗi đau cũng có ích. Tôi đọc trong 1 cuốn sách rằng theo tục lệ cổ xưa, vào ngày lễ Giáng Sinh, hãy để 1 chỗ trống ở bàn ăn để gia đình có thể mời một người khách nghèo không có gì để ăn. Việc giữ 1 chỗ trống ở bàn sẽ làm cho người khách lạ cảm thấy thân mật và tự nhiên hơn.
Chỗ trống bên bàn ăn không phải là để tưởng nhớ. Chỗ đó để trống để được làm đầy. Nếu bạn không có người khách nào vào ngày lễ Giáng Sinh, hãy cảm ơn vì kỷ niệm vẫn còn đang ở chỗ trống đó. Và tuyệt làm sao nếu có ai đó đến để điền vào chỗ trống. Khi ấy nó được lấp đầy bằng sự cởi mở và thân tình của bạn.
Hãy ước rằng bạn luôn có 1 chỗ trống như thế trong cuộc sống và trong trái tim, để dành cho những kỷ niệm và sau đó là những yêu thương sẽ có chỗ để hạ cánh và vĩnh viễn ngự trị.
Theo Thanglongdl